Các Đại hội Đảng Đảng_Cộng_sản_Trung_Quốc

Ngày 1 tháng 7 năm 1921 được lấy làm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc vì trước đây cho rằng Đại hội lần thứ nhất thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc họp từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 7 năm 1921. Tuy nhiên Đại hội lần thứ nhất sau này được xác minh là diễn ra từ ngày 23 đến 31 tháng 7 năm 1921, nhưng ngày kỉ niệm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn giữ nguyên.

Trong tình hình bình thường, các Đại hội được tổ chức cách nhau 5 năm. Hai Đại hội cách nhau lâu nhất là Đại hội VI (1928) và Đại hội VII (1945) khi có nội chiến ác liệt và Vạn lý Trường chinh. Thời gian từ Đại hội VIII (1956) đến Đại hội IX (1969) cũng khá lâu khi đấu tranh nội bộ trong Đảng gay gắt, đi kèm cuộc Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông phát động làm hỗn loạn xã hội, tê liệt các cơ quan Đảng và chính quyền.

Đại hội I (1921)

Tòa nhà số 76, đường Hưng Nghiệp, Thượng Hải, nơi diễn ra Đại hội I thành lập Đảng Cộng sản Trung QuốcNam Hồ, Gia Hưng

Đại hội lần thứ nhất họp từ ngày 23 đến 31 tháng 7 năm 1921, ban đầu tại nhà 106 đường Vọng Chí thuộc tô giới của Pháp (ngày nay là số nhà 76, đường Hưng Nghiệp, Hoàng Phố, Thượng Hải), sau chuyển đến một chiếc thuyền trên hồ Nam Hồ, huyện Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang.

Tham dự Đại hội có 12 đại biểu, thay mặt cho khoảng 57 đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc: Lý Đạt, Lý Hán Tuấn (đại biểu Thượng Hải); Trương Quốc Đào, Lưu Nhân Tĩnh (đại biểu Bắc Kinh); Mao Trạch Đông, Hà Thúc Hành/Hoành (đại biểu Hồ Nam); Đổng Tất Vũ, Trần Đàm Thu (đại biểu Hồ Bắc); Vương Tận Mĩ, Đặng Ân Minh (đại biểu Sơn Đông); Trần Công Bác (đại biểu Quảng Đông, đến dự tại hồ Nam Hồ); Chu Phật Hải (đại biểu từ Nhật về). Ngoài ra còn có Bao Huệ Tăng, được Trần Độc Tú (đang trốn tránh phái hữu ở Quảng Châu) cử làm đại diện cho mình và 2 đại diện của Quốc tế Cộng sảnMaring (tức Henk Sneevliet, người Hà Lan) và Nikolsky (người Nga).

Đại hội đã cử ra Trung ương Cục (中央局) gồm 3 người: Trần Độc Tú, Trương Quốc Đào và Lý Đạt, cử Trần Độc Tú làm Bí thư Trung ương (中央书记, Trung ương thư ký). Trương Quốc Đào phụ trách tổ chức, Lý Đạt phụ trách tuyên truyền.

Đại hội II (1922)

Đại hội lần thứ hai họp từ ngày 16 đến 23 tháng 7 năm 1922, tại Thượng Hải.

Tham dự Đại hội có 12 đại biểu, thay mặt cho 195 đảng viên. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương (中央执行委员会, Trung ương Chấp hành Ủy viên Hội) gồm 5 người: Trần Độc Tú, Trương Quốc Đào, Lý Đại Chiêu, Thái Hoà Sâm, Cao Quân Vũ, (sau này bổ sung thêm Đặng Trung Hạ và Hướng Cảnh Dư). Trần Độc Tú làm Ủy viên trưởng Ban Chấp hành Trung ương (tương đương Tổng Bí thư).

Đại hội III (1923)

Đại hội lần thứ ba họp từ ngày 12 đến 20 tháng 6 năm 1923, tại Quảng Châu.

Tham dự Đại hội có hơn 30 đại biểu, thay mặt cho 432 đảng viên. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 9 người, hạt nhân của Ban Chấp hành Trung ương là Trung ương Cục gồm 5 người: Trần Độc Tú, Mao Trạch Đông, La Chương Long, Sái Hoà Sâm, Đàm Bình Sơn. Đến tháng 9 cùng năm, khi Đàm Bình Sơn được cử làm đại diện ở Quảng Đông, thì bổ nhiệm Vương Hà Ba thay thế. Trần Độc Tú làm Ủy viên trưởng Ban Chấp hành Trung ương.

Đại hội IV (1925)

Đại hội lần thứ tư họp từ ngày 11 đến 22 tháng 1 năm 1925, tại Thượng Hải.

Tham dự Đại hội có 20 đại biểu, thay mặt cho 994 đảng viên. Đại hội bầu ra Trung ương Cục, hạt nhân của Ban Chấp hành Trung ương gồm 5 người: Trần Độc Tú, Bành Thuật Chi, Trương Quốc Đào, Sái Hoà Sâm, Cù Thu Bạch. Trần Độc Tú được bầu làm Tổng Bí thư (总书记).

Đại hội V (1927)

Đại hội lần thứ năm họp từ ngày 27 tháng 4 đến ngày 9 tháng 5 năm 1927, tại Hán Khẩu (nay là Vũ Hán).

Tham dự Đại hội có 80 đại biểu, thay mặt cho 57.967 đảng viên. Đại hội bầu ra Ủy ban Trung ương (中央委员会, Trung ương Ủy viên Hội) gồm 29 người. Bộ Chính trị (政治局, Chính trị Cục) gồm 7 người: Trần Độc Tú, Sái Hoà Sâm, Lý Lập Tam, Lý Duy Hán, Cù Thu Bạch, Đàm Bình Sơn, Trương Quốc Đào. Trần Độc Tú được bầu làm Tổng Bí thư. Chu Ân Lai làm Bí thư trưởng.

Do đường lối hữu khuynh, Trần Độc Tú bị cách chức Tổng Bí thư vào tháng 7 năm 1927. Từ tháng 8 năm 1927 đến tháng 7 năm 1928, Cù Thu Bạch phụ trách Trung ương lâm thời.

Đại hội VI (1928)

Đại hội lần thứ sáu họp từ ngày 18 tháng 6 đến ngày 11 tháng 7 năm 1928, tại Moskva, Liên Xô.

Tham dự Đại hội có 84 đại biểu chính thức, 34 đại biểu dự thính, đại diện cho hơn 40.000 đảng viên. Đại hội bầu ra Ủy ban Trung ương gồm 23 ủy viên chính thức, 13 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên: Hướng Trung Phát, Chu Ân Lai, Tô Triệu Chinh (mất vì bệnh tật năm 1929), Hạng Anh, Sái Hoà Sâm, Cù Thu Bạch và Trương Quốc Đào. Hướng Trung Phát được bầu làm Tổng Bí thư.

Sau một thời gian, bổ sung vào Bộ Chính trị Lý Lập Tam, Từ Tích Căn, Cố Thuận Chương, Viên Bỉnh Huy. Lý Lập Tam giữ chức Trưởng ban Tuyên truyền, ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị nắm thực quyền lãnh đạo Đảng cho đến tháng 9 năm 1930.

Tháng 9 năm 1930, Hội nghị toàn thể Ủy ban Trung ương Đảng họp, phê phán đường lối tả khuynh của Lý Lập Tam. Bộ Chính trị gồm: Hướng Trung Phát, Chu Ân Lai, Cù Thu Bạch, Hạng Anh, Trương Quốc Đào, Quan Hướng Ứng, Lý Lập Tam. Từ tháng 9 năm 1930 đến tháng 1 năm 1931, Cù Thu Bạch, ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị chủ trì công tác.

Từ tháng 1 năm 1931, Vương Minh (tức Trần Thiệu Vũ) được Quốc tế Cộng sản phái về, vào Bộ Chính trị và nắm quyền lãnh đạo từ tháng 6 đến 18 tháng 10 năm 1931 thì lại đi Liên Xô. Bác Cổ (tức Tần Bang Hiến) thay thế Vương Minh làm Tổng Bí thư.

Tháng 1 năm 1935 tại Hội nghị Tuân Nghĩa, Trương Văn Thiên (tức Lạc Phủ) lên làm Tổng Bí thư. Bộ Chính trị gồm: Trương Văn Thiên, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Bác Cổ, Hạng Anh. Trên thực tế Mao Trạch Đông là người nắm vai trò quyết định.

Tại Hội nghị Bộ Chính trị ngày 20 tháng 3 năm 1943 tại Diên An, Mao Trạch Đông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng, Chủ tịch Bộ Chính trị, Chủ tịch Ban Bí thư. Trương Văn Thiên vẫn là Tổng Bí thư nhưng chỉ bó hẹp trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận, không có thực quyền.

Đại hội VII (1945)

Đại hội lần thứ bảy họp từ ngày 23 tháng 4 đến ngày 11 tháng 6 năm 1945, tại Diên An.

Tham dự Đại hội có 544 đại biểu chính thức, 208 đại biểu dự thính, đại diện cho 1.210.000 đảng viên. Đại hội bầu ra Ủy ban Trung ương gồm 44 ủy viên chính thức, 33 ủy viên dự khuyết.

Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên: Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Nhậm Bật Thời (mất tháng 10 năm 1950), Chu Ân Lai, Trần Vân, Khang Sinh, Cao Cương (năm 1955 mất chức và được công bố là tự sát trong tù), Bành Chân, Đổng Tất Vũ, Lâm Bá Cừ, Trương Văn Thiên, Bành Đức Hoài. Từ năm 1955 bổ sung Lâm BưuĐặng Tiểu Bình vào Bộ Chính trị.

  • Ban Bí thư gồm 5 ủy viên: Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Nhậm Bật Thời (mất tháng 10 năm 1950), Chu Ân Lai. Từ tháng 6 năm 1950 bổ sung Trần Vân vào Ban Bí thư thay thế Nhậm Bật Thời. Ban Bí thư, được gọi không chính thức là "bộ ngũ", đóng vai trò quan trọng như Thường vụ Bộ Chính trị sau này.
  • Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng: Mao Trạch Đông.

Đại hội VIII (1956)

Đại hội lần thứ tám họp từ ngày 15 đến ngày 27 tháng 9 năm 1956, tại Bắc Kinh.

Tham dự Đại hội có 1026 đại biểu chính thức, 107 đại biểu dự thính, đại diện cho 10.734.384 đảng viên. Đại hội bầu ra Ủy ban Trung ương gồm 97 ủy viên chính thức, 73 ủy viên dự khuyết.

Bộ Chính trị gồm 17 ủy viên chính thức: Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình, Lâm Bưu, Lâm Bá Cừ, Đổng Tất Vũ, Bành Chân, La Vinh Hoàn, Trần Nghị, Lý Phú Xuân, Bành Đức Hoài, Lưu Bá Thừa, Hạ Long, Lý Tiên Niệm; và 6 ủy viên dự khuyết: Ô Lan Phu, Trương Văn Thiên, Lục Định Nhất, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Bạc Nhất Ba.

  • Thường vụ Bộ Chính trị gồm 6 người: Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình.
  • Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng: Mao Trạch Đông.
  • Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng: Lưu Thiếu Kỳ (đến năm 1966), Chu Ân Lai (đến năm 1966), Chu Đức (đến năm 1966), Trần Vân (đến năm 1966).
  • Tổng Bí thư: Đặng Tiểu Bình (đến năm 1966)

Tại Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa 8 (từ ngày 5 đến ngày 23 tháng 5 năm 1958), bổ sung 3 ủy viên chính thức Bộ Chính trị: Kha Khánh Thi (mất năm 1965), Lý Tỉnh Tuyền và Đàm Chấn Lâm, nâng tổng số ủy viên Bộ Chính trị lên 20 người. Lâm Bưu giữ chức Phó Chủ tịch Đảng và trong Thường vụ Bộ Chính trị, xếp trên Đặng Tiểu Bình.

Tại Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng lần thứ 11 khóa 8 (tháng 8 năm 1966), Bộ Chính trị được mở rộng, gồm 25 ủy viên chính thức và 7 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Bộ Chính trị mới gồm 11 người, xếp theo thứ tự như sau: Mao Trạch Đông, Lâm Bưu, Chu Ân Lai, Đào Chú (đến năm 1967, mất năm 1969), Trần Bá Đạt, Đặng Tiểu Bình (đến năm 1967), Khang Sinh, Lưu Thiếu Kỳ (đến năm 1968, mất trong tù năm 1969), Chu Đức, Lý Phú Xuân, Trần Vân. Nhưng chỉ một hai năm sau, nhiều ủy viên Bộ Chính trị, thậm chí ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị bị vô hiệu hóa, thậm chí bị giam cầm, bức hại.

Đại hội IX (1969)

Đại hội lần thứ chín họp từ ngày 1 đến ngày 24 tháng 4 năm 1969, tại Bắc Kinh.

Tham dự Đại hội có 1512 đại biểu, đại diện cho 22 triệu đảng viên. Đại hội thông qua điều lệ mới, bầu Ủy ban Trung ương gồm 170 ủy viên chính thức, 109 ủy viên dự khuyết.

Bộ Chính trị gồm 21 ủy viên chính thức: Mao Trạch Đông, Lâm Bưu (mất năm 1971), Chu Ân Lai, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Diệp Quần (mất năm 1971), Diệp Kiếm Anh, Lưu Bá Thừa, Hoàng Vĩnh Thắng, Giang Thanh, Chu Đức, Hứa Thế Hữu, Trần Tích Liên, Lý Tiên Niệm, Đổng Tất Vũ, Lý Tác Bằng, Ngô Pháp Hiến, Trương Xuân Kiều, Khâu Hội Tác, Diêu Văn nguyên, Tạ Phú Trị (mất năm 1972); và 4 ủy viên dự khuyết: Kỉ Đăng Khuê, Lý Tuyết Phong, Lý Đức Sinh, Uông Đông Hưng.

  • Thường vụ Bộ Chính trị gồm 5 người: Mao Trạch Đông, Lâm Bưu, Chu Ân Lai, Trần Bá Đạt, Khang Sinh
  • Chủ tịch Đảng: Mao Trạch Đông
  • Phó Chủ tịch Đảng: Lâm Bưu (kế vị)